Theo A. Maslow, mọi người đều có những nhu cầu rất
đa dạng và được chia thành năm cấp độ từ thấp nhất đến cao nhất.
Nhu cầu sinh lý là những nhu cầu cơ bàn để có thể
duy trì bản thân cuộc sống con người (ăn, mặc, ở…). A. Maslow quan niệm rằng
khi nhu cầu này chưa được thỏa mãn thì mới đủ cần thiết để có thể duy trì cuộc
sống thì những nhu cầu khác sẽ không thúc đẩy quyền con người.
Nhu cầu an toàn: là những nhu cầu tránh sự nguy
hiểm về thân thể và sự đe dọa mất việc, mất tài sản.
Nhu cầu xã hội: do con người là thành viên của xã hội nên
họ cần được những người khác chấp nhận.
Nhu cầu được tôn trọng: theo A. Maslow, khi con
người bắt đầu thỏa mãn nhu cầu được chấp nhận là thành viên trong xã hội thì họ
có xu thế tự trọng và muốn được người khác tôn trọng. Nhu cầu loại này dẫn tới
những sự thỏa mãn như quyền lực, uy tín, địa vị và lòng tự tin.
Nhu cầu tự hoàn thiện: A. Maslow xem đây là nhu cầu cao
nhất trong cách phân cấp của ông. Đó là sự mong muốn để đạt tới chỗ mà một con
người có thể đạt tới. Tức là làm cho tiềm năng của một người đạt tới mức tối
đa.
Maslow cho rằng, khi nhu cầu bậc thấp hơn được thoả mãn
thì nhu cầu bậc cao hơn mới xuất hiện và trở thành động cơ của con người. Tại
mộ(t. thời điểm cụ thể trong cuộc sống của mỗi con người đều nổi lên
một nhóm nhu cầu cấp thiết và người ta bị thôi thúc phải tìm cách thoả mãn
chúng. Khi một nhóm nhu cầu được thỏa mãn thì loại nhu cầu này không còn là
động cơ thúc đẩy nữa.
Như vậy, theo học thuyết này trước tiên các nhà quản lý
phải quan tâm đến các nhu cầu vật chất, trên cơ sở đó mà nâng dần lên các nhu
cầu bậc cao hơn và muốn thúc đẩy người lao động làm việc có hiệu quả thì nhà
quản lý cần phải xác định đúng và tác động đúng vào mức độ nhu cầu mà người lao
động đang thực sự quan tâm.